Thứ Ba, 6 tháng 12, 2011

thanh tịnh tâm - Con người toàn thể


 Thường Nhân
Tương quan giữa Thân Tướng, Thân khí, Thân Ý, Thân Tâm
Không ai có thể thấy thân tướng mà không có thân ý thân tâm và thân khí, cái thấy luôn luôn là cái thấy toàn thể, nghĩa là cùng lúc sự hiện hữu là toàn vẹn các thân ấy, nhưng do tầm nhìn bị hạn định bởi từng người, điều thấy hoàn toàn khác xa nhau. Vì thế mỗi tác động vào một thân đều có nghĩa là tác động toàn thể. 
Có thể hiểu như thế nầy: một lời nói chân thật, động đến càn khôn vũ trụ. Vì khi nói truyền đi một dạng năng lượng, mà năng lượng không mất chỉ chuyển từ dạng năng lượng nầy qua dạng năng lượng khác mà thôi. Đức Giêsu cũng từng nói: “một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng không ngoài ý Thiên Chúa”. Đức Phật cũng nói; “một cái khẩy tay chấn động tam thiên đại thiên thế giới”. Tam thiên đại thiên thế giới hay ý Thiên Chúa chính là thân tướng con người vậy.
Giả như một người bị té trật bàn chân, ngay khi ấy thân tướng đã bị tổn thương, thân khí bắt đầu thở gấp và chuyển tải tổn thương về não, báo cho cơ thể biết thân tướng đã bị tổn thương, thân ý sẽ phân tích nguyên nhân, lỗi tại ai, ứng xử như thế nào? Giận, ghét người làm cho mình bị thương tổn? hay tha thứ và cảm thông, truyền về tâm, thân tâm cảm nhận và ra lệnh một hướng hành động: thù, thương, tha thứ, thông cảm, bỏ qua, hoặc nghĩ rằng: do thân tướng thì phải có nạn… tùy theo kiến giải để cho một kết quả ứng xử tương hợp. Bị thương là va vào cảnh trần, nhận ra bị thương là do lục căn (Thân tướng), chuyển tải sự kiện nhờ (thân khí), phân tích sự kiện là do ý thức (thân Ý), gồm Thập Bát Giới: lục trần, lục căn, và lục thức ([1]). Chân tâm (Thân Tâm) ứng hiện và ứng xử mọi thứ băng qua thập bát giới đó. Không có việc gì dù nhỏ đến mấy mà không động vào toàn thể, do tâm chưa thanh tịnh nên con người không thấy và biết. 
Bạn hãy yên lặng ngắm nhìn. Sự hiện hữu 
nhiều thân trong Cánh Sen Hồng

Có người họ chỉ chăm chút vào Thân Tướng, cho ăn ngon, ở nhà sang trọng, áo quần đắt tiền, phương tiện đời mới tối tân nhất… Thân tướng được bảo vệ bằng những tiện nghi thỏa mãn mọi nhu cầu lập tức… toàn bộ suy nghĩ cuộc đời của người ấy đã dừng lại nơi thân tướng. Nghĩ như thế, nếu làm cho mình và cả cho cộng đồng, họ được nhiều người tung hô, vì rất nhiều người ngày nay nghĩ như họ. Con người ấy dừng suy nghĩ trong phạm trù Cộng Đồng và Vật chất.
Có người lại buông bỏ mọi thứ Vật Chất, Cộng Đồng, cho đời là hư ảo băng hoại chẳng có giá trị vĩnh hằng. Họ tìm nơi thanh vắng, chọn đời sống đạm bạc, không tiếp xúc với con người. Đời sống như người đã chết, ngày đêm miên mật ngồi thiền im lặng lãng quên, chờ ngày thân tướng tan hoại, miên mật định thân ý không lay động. Họ đã chết trong đời rồi.
Những hình thái ấy mang tính cực đoan, chúng tôi không dám phán quyết vì đó là sự chọn lựa tự do của con người. Tu tập Thanh Tịnh Tâm không mang hình thái ấy mà tính trọn vẹn của bốn từ: Tinh Thần – Vật Chất - Cộng Đồng – Tâm Linh ([2]). Nếu là con người có cấu thành Vật Chất, sống giữa Cộng Đồng, liên kết với cộng đồng, phải có Tinh Thần và đỉnh cao của tinh thần chính là Tâm Linh. Vì thế con người phải biết Tứ Thân ấy để dung hòa cân bằng, dưỡng nuôi tu tập, chắc chắn thế giới sẽ hòa bình bởi thân tâm của con người đã trở nên hòa bình. Hòa bình nhân loại phải bắt đầu hòa bình bên trong mỗi con người.
Thanh tịnh để nghe: trong đêm trường thanh vắng, nếu đang thức thì chúng ta có thể nghe được những âm thanh mà khi ồn ào không nghe được. Tiếng tích tắc của đồng hồ sẽ nghe rất rõ khi đêm về khuya thanh vắng, tiếng tơ lòng sẽ thấu suốt khi vợ đợi chồng vò vỏ năm canh, khúc nhạc càng hay khi thính phòng càng vắng lặng… đó là thanh tịnh. Tiếng của tâm là tiếng vô thinh, không dùng tai mà nghe được, không sờ đụng được, nên có thể là KHÔNG CÓ cho người chưa đạt được trạng thái thanh tịnh. Người tu chẳng qua là tạo lập cảnh trạng thanh tịnh để tiếng của tâm hiển lộ, để tâm phát âm, để cái tâm ấy thi triển hiện thực như Nó là.
Có những vấn đề hoàn toàn không có âm thanh mà biết, mà tồn tại. Con người có thể cảm nhận người đối diện đang đồng với mình hay đang chống mình. Con người có thể linh cảm điều bất an hoặc điều an bình trước khi nó trở thành hiện thực… nên chờ nghe mới biết đôi lúc đã quá muộn rồi.
Hôm Đức Giêsu sống lại, Người hiện đến với các tông đồ, có ông Toma vắng mặt, các tông đồ nói lại Đức Giêsu đã sống lại,  nhưng ông đã không tin nên mới nói: “Nếu bàn tay tôi không xỏ tay vào cạnh sườn Người, ngón tay không xỏ vào lỗ đinh thâu, thì tôi không tin”.  Sau đó Đức Giêsu hiện đến gặp ông và Người đã nói: “Hãy xỏ tay vào cạnh sườn Thầy, hãy đưa ngón tay xỏ vào lỗ đinh thâu…Bởi vì con thấy nên mới tin, phúc cho ai không thấy mà tin” ([3])
Chính tại CÁI THẤY của Thanh Tịnh Tâm, người tu biết mình được gặp, đã theogọi là đã chứng ngộ. Người tu không hề tạo lập Chân Tâm, mà chỉ tạo lập Cảnh để gặp cái Thực Tại Hiện Tiền ấy. Nên có thể nói: người không tạo lập phương tiện để Chân Tâm hiển lộ, không phải là người tu. Nếu tu mà không gặp thực tại ấy, thì tu để làm gì? Người không biết đường lại làm người chỉ đường được sao?




[1] Thập Bát Giới: Lục Căn: tai, mắt,  mũi, miệng, thân, ý – Lục Trần: thinh, sắc, hương, vị, xúc, pháp – Lục Thức: cái nghe của tai, cái thấy của mắt, cái mùi của mũi, cái biết vị của miệng, cái biết sờ đụng, cái biết của vô tướng, của tinh thần. Lục căn, lục trần, lục thức làm cửa ngỏ thâu nhận xử lý mọi duyên cảnh biến hiện trong cuộc đời. 
[2] Nền Tảng Của Phái Bửu Sơn Kỳ Hương
[3] Ga 20, 24-29

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2011

Điều trị bệnh đau đầu


    
                                               Lương y Nguyễn Tấn Xuân
         
          Đau đầu là một chứng bệnh rất thường gặp bởi có rất nhiều nguyên nhân gây ra đau đầu, như khí huyết hư suy gây đau đầu, huyết áp cao, huyết áp thấp gây đau đầu, buồn phiền, lo âu, bực tức … gây đau đầu. Mặc dù vậy, với kinh nghiệm bản thân đã chữa bệnh đau đầu rất hiệu quả chỉ với một “bài thuốc gia truyền” nên tôi giới thiệu đến bạn đọc “Hội Đông y Gò Vấp” bài thuốc này cùng phương huyệt chữa bệnh đau đầu.
          Để dễ nhớ bài thuốc tôi đã làm thành bài thơ lục bát như sau:
Đau đầu Bạch chỉ, Xuyên khung
Tế tân, Khương hoạt hợp cùng Phòng phong
Sài hồ, Cam thảo, Hoàng cầm
Hoàng liên phối hợp uyên thâm diệu kỳ.

Công thức:

Bạch chỉ               20g                       Xuyên khung         20g   
Tế tân                    08g                       Khương hoạt         20g
Phòng phong        16g                       Sài hồ                    20g
Cam thảo              12g                       Hoàng cầm            20g
Hoàng liên            20g.

Cách sắc thuốc:

Lần I       :  đổ 3 chén nước sắc còn 7 phân
Lần II     :  đổ 2,5 chén nước sắc còn 5 phân
Lần III    :  đổ 2 chén nước sắc còn 5 phân

Sắc  nước nào, uống nước đó. Uống thuốc còn nóng trước bữa ăn 1 giờ.
Kiêng: Đậu đen, đậu xanh, rau muống.

TÌM HIỂU 9 VỊ THUỐC:
Bạch chỉ: Là rễ phơi hay sấy khô của cây Bạch chỉ. Vị cay, tính ôn, vào 3 kinh Phế, Vị và Đại trường. Có tác dụng phát biểu khử phong, thẩm thấp, hoạt huyết bài nùng sinh cơ, giảm đau, dùng để làm thần kinh hưng phấn làm cho huyết trong toàn thân vận chuyển mau chóng, làm thuốc thư gân, ra mồ hôi chữa nhức đầu, răng đau, các bệnh về đầu, mặt, xích bạch đới, thông kinh nguyệt. Dùng ngoài, Bạch chỉ có thể dùng chữa sưng vú, tràng nhạc, ghẻ lở, đỡ đau, hút mủ. Thường Bạch chỉ được dùng làm thuốc giảm đau, chữa nhức đầu, cảm mạo, hoa mắt, đau răng, còn dùng làm thuốc cầm máu, đại tiện ra máu, chảy máu cam.
Xuyên khung: Là thân rễ phơi hay sấy khô của cây Xuyên khung, vị cay, tính âm, vào 3 kinh Can, Đởm và Tâm bào. Có tác dụng đuổi phong, giảm đau, lý khí hoạt huyết dùng chữa kinh nguyệt không đều, đầu nhức mắt hoa, ngực bụng đầy trướng, bán thân bất toại, chân tay co quắp, ung thư.
*Lưu ý: Những người âm hư hoả vượng không dùng được.
Tế tân: Là toàn cây phơi hay sấy khô của cây Tế tân. Vị cay, tính ôn, không độc, vào 4 kinh Tâm, Phế, Can và Thận. Có tác dụng tán phong hàn, hành thuỷ khí, thông khiếu. Dùng trong những trường hợp phong hàn, phong thấp, đầu nhức, ho khí đưa ngược lên, đau răng, ngạt mũi, bí mồ hôi, ứ huyết.
*Lưu ý: Người khí hư mà không ra mồ hôi, huyết hư sinh nhức đầu, âm hư mà ho thì không dùng được.
Khương hoạt: Là rễ phơi hay sấy khô của cây Khương hoạt. Vị ngọt, đắng, tính bình, không độc. Khương hoạt mạnh hơn đi thẳng lên đỉnh đầu, chạy ngang cánh tay trừ phong, chữa tê, còn Độc hoạt chỉ đi vào bụng, ngực, lưng và gối thôi. Khương hoạt chữa chứng thuỷ thấp phong, còn Độc hoạt chữa chứng thuỷ thấp phục phong. Khương hoạt có công phát biểu đi lên thượng tiêu chữa các chứng du phong nhức đầu, đau nhức các khớp xương, còn Độc hoạt có sức trợ biểu đi xuống hạ tiêu, chữa các chứng phong ẩn náu làm cho nhức đầu, hai chân tê thấp. Hiện nay thường dùng chữa nhức đầu, thân lạnh, cảm mạo phong hàn, sốt không ra mồ hôi, gân xương đau nhức.
Phòng phong:rễ của cây Phòng phong, là một vị thuốc rất hay đựơc dùng để chữa các chứng bệnh do gió gây ra (phong là gió, phòng là phòng bị), vị cay, ngọt, tính ôn, không độc, vào 5 kinh Bàng quang, Can, Phế, Tỳ và Vị. Có tác dụng phát biểu, tán phong, trừ thấp, là thuốc chữa cảm mạo biểu chứng ra mồ hôi, dùng chữa nhức đầu choáng váng, mắt mờ, trừ phong, đau các khớp xương.
Sài hồ: rễ phơi hay sấy khô của cây Sài hồ, vị đắng, tính hơi hàn, vào 4 kinh Can, Đởm, Tâm bào và Tam tiêu. Có tác dụng phát biểu, hoà lý, thoái nhiệt, thăng dương, giải uất, điều kinh. Dùng chữa bệnh thiếu dương, hàn nhiệt vãng lai (khi nóng, khi lạnh), miệng đắng, tai ù, hoa mắt, đầu váng, nôn mửa, sốt rét, kinh nguyệt không đều.
Cam thảo: Còn có tên là Bắc cam thảo, là rễ và thân rễ phơi hay sấy khô của cây Cam thảo. Vị ngọt, tính bình (sau khi nướng thì tinh hơi ôn), vào 12 đường kinh. Có tác dụng bổ Tỳ, Vị, nhuận Phế, thanh nhiệt giải độc, điều hoà các vị thuốc. Muốn thanh hoả thì dùng sống, muốn ôn trung thì nướng. Nướng lên chữa Tỳ hư mà ỉa lỏng, Vị hư mà khát nước, Phế hư mà ho. Dùng sống chữa đau họng, ung thư.
Hoàng cầm: Là rễ phơi hay sấy khô của cây Hoàng cầm, vị đắng, tính hàn, vào 5 kinh Tâm, Phế, Can, Đởm và Đại tràng. Có tác dụng tả Phế hoả, thanh thấp nhiệt. Dùng chữa hàn nhiệt vãng lai, phế nhiệt sinh ho, tả lỵ đau bụng, thấp nhiệt vàng da, nhức đầu, tả lỵ đau bụng, mắt đỏ, đau, động thai, Gần đây, Hoàng cầm được dùng làm thuốc chữa các triệu chứng nhức đầu, mất ngủ của bệnh cao huyết áp do thần kinh thực vật và do mạch máu bị cứng, đồng thời được dùng điều trị cao huyết áp. Dùng dưới hình thức rượu Hoàng cầm (bột Hoàng cầm 20g, cồn 70o vừa đủ 100ml). Ngày uống 2-3 lần, mỗi lần 20-30 giọt.
Hoàng liên: Là thân rễ phơi khô của nhiều loài Hoàng liên chân gà, vị đắng, tính hàn vào 5 kinh Tâm, Can, Đởm, Vị và Đại trường. Tác dụng tả hoả , táo thấp, giải độc, chữa sốt, tả lỵ, tâm phiền, nôn ra máu, tiêu khát, đau mắt đỏ, loét miệng, ngộ độc do Ba đậu, Khinh phấn.
*Lưu ý: Bệnh nhân huyết ít, khí hư, tỳ vị hư nhược, trẻ con lên đậu, đi tả cấm dùng.



Phương huyệt:

Đau đầu nhớ huyệt Ấn đường
Thái dương, Bách hội vẫn thường đi chung
Tứ quan(*)– huyệt hay vô cùng
Hư bổ, thực tả luận dùng giản đơn.


VỊ TRÍ HUYỆT:
Ấn đường: Ở điểm giữa hai đầu trong lông mày.
Thái dương: Chỗ lõm sau điểm giữa đường nối đuôi mày và đuôi mắt 1 thốn.
Bách hội: Ở vùng đầu, đúng giữa đường chân tóc trán thẳng lên 5 thốn, hoặc chỗ điểm giao hội của đường dọc chính giữa đầu với đường ngang nối hai mỏm vành tai.
Hợp cốc: Ở mu bàn tay, giữa hai xương bàn tay thứ 1 và thứ 2, chỗ ngang điểm giữa của xương bàn tay thứ 2.
Thái xung: Ở mu bàn chân, chỗ lõm trước chỗ hợp hai xương bàn chân thứ 1 và thứ 2.




 
(*) 2 Hợp cốc + 2 Thái xung.