Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012

Lớp phổ cập kiến thức YHCT khóa I - Phần IV. HỌC THUYẾT KINH LẠC


 HỌC THUYẾT KINH LẠC:
 A. Lý thuyết:
 1. Khái niệm về Kinh, Lạc, Huyệt, Mạch.
 - Kinh.
 - Lạc.
 - Huyệt.
 - Mạch.
 2. Chức năng nhiệm vụ:
 3. Hệ thống vận hành 12 kinh:
 4. Ý nghĩa:
 - Kinh âm dương.
 - Kinh, Thái, Thiếu… âm dương.
 B. Nguyên tắc Kinh Ly Tâm:
 1. Âm thăng dương giáng:
 - Các kinh dương ở đầu xương chân.
 - Các kinh âm ở chân đi lên.
 2. Các kinh ở tay:
 - Các kinh âm ly tâm.
-                 Các kinh dương hồi tâm.
 3. Các kinh ở chân:
-Các kinh âm hồi tâm.
- Các kinh dương ly tâm.
 C. Kinh âm dương, tạng phủ:
 1. Cặp Thái âm, Thiếu dương.
 2. Cặp Quyết âm, Thiếu dương.
 3. Cặp Thiếu âm, Thái dương. 

NỘI DUNG

HỌC THUYẾT KINH LẠC:
A. KHÁI NIỆM: Đường KINH.
Như ta đã biết ở phần NHẬP MÔN ĐÔNG Y: Đối tượng học của Đông y là Khí hóa luận và Kinh lạc, vốn nó là trừu tượng. Riêng hệ thống kinh lạc, nó không phải là thần kinh cũng không phải là mạch máu theo đối tượng học của tây y là, giải phẫu học và thần kinh hệ. Nó là một thực tế mà dù có cho rằng hệ thống kinh lạc là hoang đường đi nữa cũng không sao chối cãi được. Vì trên thực tế nếu châm những huyệt trên nó ta thấy kết quả cụ thể như:
 - Châm giảm đau: đó là thế mạnh lớn nhất của châm cứu, như giảm đau trong phẫu thuật, các cơn đau cấp tính đới mạn tính, giảm đau trong khi đẻ.
 - Hiện nay người ta cũng đúc kết được một số thành quả bước đầu của châm cứu, đã điều trị được các bệnh như: liệt thần kinh 7 ngoại biên, đau thần kinh tọa, đau cổ gáy, viêm tuyến vú, cắt cơn hen Phế quản, cắt cơn đau dạ dày…
Vào đầu thế kỷ 20, với bước phát triển của sinh lý thần kinh, nhiều nhà nghiên cứu châm cứu cho rằng khả năng kinh lạc có quan hệ đến hệ của tây y, và cũng từ đó ngành châm cứu dần dần đã hình thành hai luồng ý kiến về bản chất của hệ kinh lạc:
 * Ý kiến thứ nhất là, Dựa vào kinh điển: qua cuốn sách cổ nhất của Đông y (thế kỷ thứ III trước công nguyên) là quyển Nội kinh đã nêu lên những nét cơ bản nhất về hệ thống kinh lạc huyệt của Trung Quốc.
 * Ý kiến thứ hai là Dựa vào ánh sáng khoa học:
- Năm 1939 Kiarlan Kiarlan (Liên Xô) đặt vào người trường điện cao thế thấy xuất hiện các dải hào quang (trường sinh học) chạy dọc theo cơ thể tương tự như đường đi của kinh lạc trong châm cứu, gọi là hiệu ứng KIARLAN.
- Năm 1957 NakataniYoshio (Nhật Bản) đã phát hiện thấy có sự thay đổi về điện thế ở vị trí đường kinh và huyệt. Trên cơ sở đó ông chế ra máy đo kinh huyệt.
- Năm 1964 Kim Boong Han (Triều Tiên) thông báo đã tìm thấy cơ sở vật chất của kinh lạc với các bằng chứng trực tiếp. Theo ông, đường kinh lạc là hệ thống đường ống chạy khắp cơ thể, là một hệ thống hoàn toàn khác biệt với những hệ thống khác như: tuần hoàn, hệ thần kinh, hệ bạch huyết… Tuy nhiên sau đó các nhà khoa học đã kiểm tra và khẳng định phát hiện của ông Kim là sai.
- Năm 1984 Jean Claude Darras (Pháp) bơm chất đồng vị phóng xạ vào vị trí huyệt, sau đó theo dõi phát xạ gamma, đã thấy chất đồng vị phóng xạ di chuyển theo đường giống như đường đi của kinh lạc. Phát hiện này cũng được các nhà châm cứu hân hoan đón nhận.
@@@
Vậy, nếu theo trường phái thứ nhất thì tất cả các kinh điển xưa nay đều viết rằng: kinh mạch là để vận hành khí huyết. Còn phương pháp nào khám phá kinh huyệt thì không có kinh điển nào đề cập đến, nó là một thực tại vô hình.

Nếu theo trường phái thứ nhì họ tìm kiếm những phản ảnh, những tác động của kinh huyệt lên một số hiện tượng như thần kinh, nội tiết, điện học và từ đó giúp cho chúng ta hiểu biết về kinh huyệt được sáng tỏ hơn như:
 - Họ đã chứng minh được châm cứu quan hệ đến việc tiết xuất một số chất mà quan trọng là các morphine nội sinh: Endorphine để mở ra con đường mới giải thích cơ chế để giảm đau trong châm cứu và đặc biệt châm cay ma túy của Mayer.
 - Họ cũng thấy điện thế trên da có nhiều điểm cao hơn so với vùng xung quanh và những điểm đó trùng với huyệt vị châm cứu. Từ đó đã có máy dò huyệt.
 - Đặc biệt đại học Kirov ở Kazachstan Alma Ata đã đưa ra giả thuyết sau: trong các cơ thể sống bao gồm cây cỏ, các động vật và người không chỉ cấu tạo bằng phân tử, nguyên tử mà còn có một cơ thể khác lồng vào. Đó là cơ thể plasma sinh học (Bioplasma). Khám phá trên làm cho chúng ta nhớ lại 2 câu trong Nội Kinh: Phế chủ bì mao và Phế tàng phách đồng thời ta cũng nhớ lại vầng hào quang rực rỡ trên những bức tranh cổ Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Chúa, Phật… mà các họa sĩ đã vẽ nhiều thế kỷ trước đây.
Vậy phải chăng huyệt là cửa ra vào và kinh là ống dẫn Bioplasma của cơ thể con người giao lưu với plasma vũ trụ?  (khí trời và khí đất – tìm hiểu thêm về Vận khí).
Nhưng dù theo trường phái nào đi nữa, hệ thống kinh, lạc, huyệt là một hệ thống hoàn chỉnh: dẫn khí huyết đi nuôi cơ thể từ tạng phủ bên trong đến bì phu bên ngoài cùng các giác quan để các cơ quan bộ phận làm tròn nhiệm vụ của nó. Ngoài ra còn phải nuôi dưỡng và bảo vệ nó bằng cả một hệ thống dinh, vệ.
a) Kinh:
Kinh là những đường đi dọc theo cơ thể mỗi tạng phủ đều có một đường kinh ở tay hoặc chân liên hệ. Chúng ta có 12 đường kinh.
 - 6 đường kinh ở tay: 3 kinh âm đi từ cánh tay trong đến lòng bàn tay liên hệ đến 3 tạng là Phế, Tâm bào, Tâm. 3 kinh dương đi từ cánh tay ngoài đến lưng bàn tay liên hệ đến 3 phủ là Đại Trường, Tam Tiêu, tiểu trường.
 - 6 đường kinh ở chân: 3 kinh âm đi từ chân trong lên bụng ngực, liên hệ đến 3 tạng là Can, Tỳ, Thận. 3 kinh dương từ đầu xuống liên hệ đến 3 phủ là Đởm, Vị, Bàng quang.
b) Lạc:
 Lạc là những đường nối các kinh biểu lý của tạng phủ với nhau. Chúng ta có 15 lạc huyệt (kể cả mạch nhâm, đốc). Huyệt lạc có nhánh từ kinh này đến nguyên huyệt của kinh kia.
c) Huyệt:
Huyệt là những điểm được xác định và phân bổ khắp phần ngoài của cơ thể. Huyệt là nơi phản ứng của cơ thể với những chứng bệnh, nơi bệnh lý báo động, đồng thời cũng là nơi kích thích (như châm cứu, bấm huyệt, điện châm…). Để phòng và trị bệnh ta còn có những nhóm huyệt:
 - Huyệt trên 12 kinh chính, nhâm và đốc mạch khoảng 365 huyệt.
 - Biệt huyệt khoảng 300 huyệt
 - Tân huyệt khoảng 300
 - Thiên ứng (a thị) huyệt: điểm đau.
d) Mạch:
Mạch là đường hiệp các kinh lại. Có 8 mạch, trong đó chỉ có nhâm mạch và đốc mạch có huyệt riêng, 6 mạch còn lại mượn huyệt của các kinh.
2. Hệ thống vận hành 12 kinh:
Khi ăn, thức ăn vào Vị trước, sau khi biến hóa thành dinh khí và vệ khí thì dinh khí được Tỳ vận hóa theo trình tự như sau:
1- Thủ Thái Âm Phế giờ dần (3-5 giờ)
2- Thủ Dương Minh Đại trường giờ mão (5-7 giờ)
3- Túc Dương Minh Vị giờ thìn (7-9 giờ)
4- Túc Thái Âm Tỳ giờ tỵ (9-11giờ)
5- Thủ Thiếu Âm Tâm giờ ngọ (11-13 giờ)
6- Thủ Thái Dương Tiểu trường giờ mùi (13-15 giờ)
7- Túc Thái Dương Bàng quang giờ thân (15-17 giờ)
8- Túc Thiếu Âm Thận giờ dần (17-19 giờ)
9- Thủ Quyết Âm Tâm bào giờ tuất (19-21 giờ)
10- Thủ Dương Minh Tam tiêu giờ hợi (21-23 giờ)
11- Túc Thiếu Dương Đởm giờ tý (23-1 giờ)
12- Túc Quyết Âm Can giờ sửu (1-3 giờ)
1.     Kinh âm dương, thái Thiếu Âm dương




a) Kinh âm dương:
-Kinh âm là kinh quan hệ với tạng và đi vùng da non (tay chân bụng ngực của cơ thể)
-Kinh dương là kinh quan hệ với phủ và đi vùng da già (tay chân hong của cơ thể, ngoại trừ kinh Bàng Quang đi sau lưng và kinh Vị đi gần giữa ngực)
b) Kinh thái Thiếu Âm dương:
 - Đối với các kinh ở tay:
 + Các kinh âm:
Lòng bàn tay và cánh tay trong là âm, phía ngoài ngón cái là âm (âm + âm) là Thái Âm (thủ Thái Âm Phế)
Lòng bàn tay và cánh tay trong là âm, phía trong ngón út là dương (âm ± dương) là Thiếu Âm (thủ Thiếu Âm Tâm)
Lòng bàn tay và cánh tay trong là âm, ở giữa cánh tay ngón giữa (±) là Quyết Âm (Thủ Quyết Âm Tâm Bào)
 + Các kinh dương:
Lưng bàn tay và cánh tay ngoài là dương, phía trong ngón út là dương (dương + dương) là Thái Dương (Thủ Thái Dương Tiểu Trường)
Lưng bàn tay và cánh tay ngoài là dương, phía ngón cái là âm (dương ± âm) là Dương Minh (Thủ Dương Minh Đại Trường)
Lưng bàn tay và cánh tay ngoài là dương, ở giữa cánh tay, ngón giữa (dương ±…) là Thiếu Dương (thủ Thiếu Dương Tam Tiêu)
 - Đối với các kinh ở chân:
 + Các kinh âm:
Mặt trong chân là âm, phía trước là âm (âm+ âm) là Thái Âm (túc Thái Âm Tỳ)
Mặt trong chân là âm, phía sau là dương (âm ± dương) là Thiếu Âm (túc Thiếu Âm Thận)
Mặt trong chân là âm, đi ở giữa (âm±…) là Quyết Âm (túc Quyết Âm Can)
 + Các kinh dương:
Mặt ngoài chân là dương, phía sau là dương (dương+ dương) là Thái Dương (túc Thái Dương Bàng Quang)
Mặt ngoài chân là dương, phía trước là âm (dương ± âm) là Dương Minh (túc dương Vị)
Mặt ngoài chân là dương, ở giữa (dương±…. ) là Thiếu Dương (túc Thiếu Dương Đởm)






B. KINH LY TÂM, HỒI TÂM:
1. So đầu với chân:
 - Dương giáng: các kinh ở đầu đi xuống chân là: Vị, Đởm, Bàng Quang.
 - Âm thăng: các kinh ở chân đi lên là Tỳ, Can, Thận.
2. So các kinh ở chân:
 - Các kinh dương ly Tâm là Vị, Đởm, Bàng Quang.
 - Các kinh âm hồi Tâm là Tỳ, Can, Thận
3. So các kinh ở tay:
 - Các kinh âm ly Tâm là Phế, Tâm bào, Tâm
 - Các kinh dương hồi Tâm là Đại Trường, Tam Tiêu, Tâm bào.
C. CẶP TẠNG PHỦ:
1. Các kinh ở chân:
Túc Thái Âm Tỳ với túc Dương MinhVị
Túc Thiếu Âm Thận với túc Thái Dương Bàng Quang.
Túc Quyết Âm Can với túc Thiếu Dương Đởm
2. Các kinh ở tay:
Thủ Thái Âm Phế với thủ Thái Dương MinhĐại Trường
Thủ Thiếu Âm Tâm với Thủ Thái Dương Tiểu Trường
Thủ Quyết Âm Can với thủ Thiếu Dương Tam Tiêu









* Ghi chú:
- Các kinh dương ở đầu giáng:
Túc Thái Dương Bàng Quang.
Túc Dương MinhVị.
Túc Thiếu Dương Đởm.
- Các kinh âm ở chân thẳng:
Túc Thiếu Âm thân.
Túc Quyết Âm Can.
Túc Thái Âm Tỳ.
- Các kinh âm ở tay ly Tâm:
Thủ Thái Âm Phế.
Thủ Quyết Âm Tâm bào.
Thủ Thiếu Âm Tâm.
Thủ Dương MinhĐại Trường.
Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu.
Thủ Thái Dương tiểu trường.