Lớp phổ cập kiến thức YHCT khóa I -
Phần II. HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH
Lương y VÕ PHƯƠC HƯNG
Lương y DƯƠNG PHÚ CƯỜNG
Biên soạn
I. HỌC
THUYẾT ÂM DƯƠNG:
A. Âm Dương là 2 mặt đối lập của sự vật: vạn
vật đều cõng âm bồng dương.
B.
Quy luật của Học thuyết Âm dương:
1. Âm dương đối lập.
2. Âm dương hổ căn.
3. Âm dương tiêu trưởng.
4. Âm dương bình hành.
C. Đặc biệt:
1. Lưu ý âm dương THỂ và DỤNG.
2. Quy luật điều hành âm dương: Đạo.
D.
Quy nạp vào âm dương:
1. Ở thiên nhiên.
2. Ở con người.
II. HỌC
THUYẾT NGŨ HÀNH:
A. Nguồn gốc: Học thuyết Ngũ Hành thoát thai
từ học thuyết Âm Dương (Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm).
B. Quy luật của Học thuyết Ngũ Hành:
1. Ngũ Hành tương sanh.
2. Ngũ Hành tương khắc.
3. Ngũ Hành tương thừa.
4. Ngũ Hành tương vũ.
C. Quan hệ các quy luật, quy luật Bình Thường
và Bất Thường:
1. Quan hệ các quy luật.
2. Quy luật Bình Thường và Bất Thường.
D. Quy nạp vào Ngũ Hành:
1. Ở thiên nhiên.
2. Ở con người.
Đ. Học thuyết Ngũ Tà:
1. Chánh tà.
2. Hư tà.
3. Thực tà.
4. Vi tà.
5. Tặc tà.
6. Học thuyết Ngũ Hành cũng là học thuyết Nhân
Quả.
E. Quan trọng của hành thổ:
1. Gia đình hành Thổ ở con người: Tỳ-vị.
2. Ngũ hành sinh khắc của Tỳ-vị.
3. Những mâu thuẫn của gia đình Tỳ-vị.
NỘI DUNG
I. Học Thuyết ÂM DƯƠNG:
A.
Khái
niệm:
Qua hiện tượng học thuyết khí hóa, ta
thấy rằng sự vật có mất cũng không hòan tòan mất hết mà là tạo điều kiện để
sinh thành một vật chất mới.
Vậy trong mỗi sự vật đều có hai mặt âm dương
trái nghịch nhau, như Lão Tử bảo: vạn vật đều cõng âm bồng dương.
B. Quy luật âm dương:
Học thuyết âm dương có bốn quy
luật.
1. Âm dương đối lập: nhất
âm nhất dương chi vị Đạo ([1]).
Đạo là một quy luật chi phối và điều hòa hai mặc âm dương đối lập, từ cái
cực đại là vũ trụ đến cực tiểu là hạt nguyên tử.
Ví dụ 1: quả địa cầu và mặt
trăng đi một vòng quanh mặt trời theo hình elip khhỏang 360 ngày để có bốn mùa
– tháng Năm chưa nằm thì sáng, tháng Mười chưa cười thì tối- trong khỏang không
gian bao la vô tận đó, nó không hề đi lệch dầu một mét hay nhanh chậm dầu một
giây đồng hồ.
Ví dụ 2: tại
sao con lươn biển hoặc con cá Hồi biết trở về cội nguồn nơi sinh sãn ra nó để
sanh dù cách mấy nghìn hải lý.
Ví dụ 3: Con gà sao đúng giờ là nó gáy?
Ví dụ 4: Hoa mười giờ nở
đúng 10 giờ, hoa Quỳnh nở đúng vào giờ Tý.
2. Âm dương hổ căn: âm
trung hữu dương căn, dương trung hữu âm căn ([2])
Căn là gốc, trong được có mất, trong mất có được ([3]).
Ví dụ:
1. Danh tướng công thành
vạn cốt khô.
2. Tấm huy chương nào cũng
có mặt trái của nó.
3. Mỹ nhân tự cổ như danh
tướng, bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
4. Như người nam cái dụng
là dương, lao động nặng nhọc, nhưng gốc người nam là âm là tinh trùng, người nữ
cái dụng là âm vì tay chân mền yếu, nhưng nõan sào là dương.
5. Tay
trái là dương, nhưng mạch xích lại là thận thủy chủ âm, tay phải là âm, nhưng
mạch xích là mạng môn hỏa là dương.
3. Âm dương tiêu trưởng: vật
cùng tắt biến, vật cực tắt phản ([4]).
Có biến mới có thông.
Ví dụ:
a) Ngày cùng cực 12 giờ trưa, sẽ chuyển thành đêm,
đêm cùng cực 24 giờ khuya sẽ chuyển thành ngày.
b) Cùng cực trăng tròn, sẽ trở lại trăng khuyết, cùng
cực trăng khuyết sẽ trở lại tròn.
c) Cùng cực nước lớn sẽ trở lại ròng, cùng cực
nước ròng sẽ trở lại lớn.
d) Bệnh gốc hàn do cảm lạnh nhưng lại sinh ra
chứng sốt cao, bệnh gốc nhiệt do cảm nóng, sinh ra triệu chứng lạnh run.
e) Âm
dương bình hành: âm dương cân bằng, âm dương là hai mặt của mỗi sự vật.
C. Thể, dụng của âm dương:
1. Nói tới học thuyết âm dương mà không hiểu
âm dương ở THỂ và DỤNG chúng ta chỉ hiểu phân nữa học thuyết âm
dương mà thôi.
Ví dụ:
a) Mặt trời là cái thể của dương có nhiệm vụ
truyền sức nóng xuống đất, đất không bị ẩm thấp là cái dụng của dương, biển là
cái thể của âm, hơi nước biển bốc lên làm mưa là cái dụng của âm.
b) Cái đầu người ta là cái thể của dương, có
nhiệm vụ truyền khí dương xuống chân, làm cho chân ấm là cái dụng của dương, chân
người ta là cái thể của âm có nhiệm vụ truyền khí âm lên đầu, làm cho đầu mát
là cái dụng của âm.
c) Tay trái là thể của dương nhưng coi bộ mạch
dương phía bên tay phải là cái dụng của dương, tay phải là âm, coi bộ mạch âm
phía bên tay trái là cái dụng của âm.
2.
Quy
luật điều hòa âm dương gọi là ĐẠO. Vì Đạo là không có hình tướng ([5]),
nên không biết bao nhiêu tôn giáo triết học, khoa học dùng nhiều từ khác nhau
để chỉ chổ nầy với hình thức: ý tại ngôn ngọai ([6]).
Ví dụ:
a)
Đạo
khả đạo, phi thường Đạo, danh khả danh phi thường danh – cưởng danh viết Đạo
([7]).
b)
Phật bảo: tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Hoặc:
vạn thù quy nhất bổn.
c)
Khoa
học vật lý cho: tất cả sự vật đều cấu tạo bởi hạt nguyên tử.
HÌNH THÁI CỰC ĐỒ
D. Ở thiên nhiên và con
người quy nạp vào âm dương:
1. Ở thiên nhiên:
Thuộc DƯƠNG
|
Thuộc ÂM
|
Trời
|
Đất
|
Nắng
|
Mưa
|
Sáng
|
Tối
|
Lữa
|
Nước
|
Mặt trời
|
Mặt trăng
|
Ngày
|
Đêm
|
…
|
….
|
3. Ở con người:
Thuộc DƯƠNG
|
Thuộc ÂM
|
Đầu
|
Chân
|
Lưng
|
Bụng
|
Phủ
|
Tạng
|
Khí
|
Huyết
|
Sốt
|
Rét
|
II. HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH:
A nguồn gốc:
Học thuyết ngũ hành thóat thai từ học
thuyết âm dương, hay nói cáhc khác học thuyết ngũ hành nhằm mục đích triển khia
rõ hơn học thuyết âm dương.
- Thái dương biểu tượng là hành hỏa.
-
Thiếu
dương biểu tượng là hành Mộc.
-
Thái
âm biểu tượng là hành thủy.
-
Thiếu
âm biểu tượng là hành kim.
-
Trung
cung biểu tượn glà hành thổ.
A. Quy luật học thuyết NGŨ HÀNH: học thuyết ngũ hành có
bốn quy luật.
1. Ngũ hành tương sanh: thủy sinh mộc, Mộc
sinh Hỏa, Hỏa sanh thổ, Thổ sanh Kim, Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc.
2. Ngũ hành tương khắc: Thủy khắc Hỏa, Hỏa
khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.
3. Ngũ hành tương thừa: (thừa là dư)
Bình thường ngũ hành tương
sinh như thủy sinh Mộc, nhưng nếu Thủy (nước) nhiều quá Mộc bị úng nước mà chết.
4. Ngũ hành tương vũ (vũ là mạnh): bệnh tật
ngũ hành tương khắc, như Thủy khắc hỏa, nhưng nếu hỏa (lữa) nhiều quá, nước
tưới vô sẽ bị bộc hơi.
C. quan hệ các quy luật ngũ hành:
1.
Từ
ngũ hành tương sinh ta suy ra ngũ hành tương thừa, tư øngũ hành tương khắc ta
suy ra ngũ hành tương vũ.
2.
Quy
luật bệnh tật và bất thường: ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc là quy
luật bệnh tật, ngũ hành tương thừa và ngũ hành tương vũ là quy luật bất thường.
3.
Quan
hệ nhân quả: nếu có ta, thì phải có cái sinh ra ta và có cái khắc ta, có ta
cũng có cái ta sanh và có cái ta khắc.
Ví dụ:
nếu ta là hành Thổ thì phải có cái sinh ta là Hỏa và cái khắc ta là Mộc. Nếu ta
là Thổ thì phải có cái ta sinh là Kim và có cai ta khắc là Thủy.
Ghi chú:
D. Quy nạp thiên nhiên và
con người vào ngũ hành:
1. Ở thiên nhiên:
Ngũ hành
|
MỘC
|
HỎA
|
THỔ
|
KIM
|
THỦY
|
Sự kiện
|
|||||
Phương hướng
|
Đông
|
Nam
|
Trung ương
|
Tây
|
Bắc
|
Mùa
Phát triển
Khí
Màu sắc
Mùi vị
|
Xuân
Sinh
Phong
Xanh
Chua
|
Hạ
Trưởng
Thử
Đỏ
đắng
|
Trưởng hạ
Hóa
Thấp
Vàng
ngọt
|
Thu
Thu
Táo
Trắng
cay
|
Đông
Tàn
Hàn
đen
mặn
|
2. ở con người:
Ngũ hành
|
MỘC
|
HỎA
|
THỔ
|
KIM
|
THỦY
|
Sự kiện
|
|||||
Phủ
|
Đởm
|
Tiểu trường
|
Vị
|
Đại trường
|
Bàng quang
|
Tạng
|
Can
|
Tâm
|
Tỳ
|
Phế
|
Thận
|
Giác quang
|
Mắt
|
Lưỡi
|
Miệng
|
Mũi
|
tai
|
Thể chất
|
Gân
|
Mạch
|
Thịt
|
Da
|
Xương
|
Tình chí
|
Giận
|
Mừng
|
Lo
|
Buồn
|
Sợ
|
Tàng trữ
|
Hồn
|
Thần
|
Ý
|
Phách
|
Chí
|
Đ. Học thuyết ngũ tà:
Học thuyết ngũ tà nhằm mục
đích giúpngườithầy thuốc tìm nguồn gốc (nguyên nhân) sinh ra bệnh gồm:
1. Chính tà: chính tạng đó
làm cho nó đau
2.
Hư
tà: tạng mẹ nó làm cho nó đau.
3.
Thực
tà: tạng con nó làm cho nó đau.
4.
Vi
tà: tạng khắc nó làm cho nó đau.
5.
Tặc
tà: tạng nó khắc làm cho nó đau.
Ví dụ: ở đây ta có cái bệnh
đau ở tạng Tỳ
Giải thích:
1. Nếu tạng Tỳ (thổ) tự nó làm cho nó đau là
chính tà (hư – ức chế).
2. Nếu mẹ nó là tạng Tâm (hỏa) suy yếu không
đủ nuôi Tỳ làm cho Tỳ đau là hư tà (hư –ức chế).
3. Nếu con của nó là tạng Phế (Kim) quá mạnh,
con khắc mẹ là Tỳ làm cho Tỳ đau là thực tà (thực -hưng phấn).
4. Nếu tạng khắc nó là Can (mộc) không đủ
khắc nó làm cho Tỳ đau là vi tà (hư – ức chế).
5. nếu Tạng no khắc là Thận (thủy) khắc
ngược lại nó là cho Tỳ đau là tặc tà (thực – hưng phấn).
E. HÀNH THỔ là hành quan
trọng:
Ở thiên nhiên cũng như ở cơ
thể con người, hành thổ là hành quan trọng nhất, vì hàn h thổ là chổ dựa của
bốn hành khác và cũng vì nó ở trung cung. Ở cơ thể con người Tỳ vị là hành thổ,
vì là hành sản ra khí hậu thiên (calori) để nuôi dưỡng và phòng chống bệnh tật
cho con người.
Nếu ta hình dung Vị là
dương Thổ có địa vị là chồng, Tỳ là âm Thổ, là nô Tỳ, ta sẽ nhân cách hóa một
gia đình hành thổ như sau:
Giải thích: muốn tạo điều
kiện cho gia đình hành thổ làm tròn chức năng và nhiệm vụ của mình tức trong
dưỡng sinh và điều trị ta phải:
1. Sưu tra lý lịch của gia đình hành Thổ.
-
Mẹ
của Vị là Tâm hỏa, con của Vị là Đại trường Kim.
-
Mẹ
của Tỳ là mạng môn (hỏa). Con của Tỳ là Phế Kim.
2. Mâu thuẩn của gia đình Tỳ vị.
- Vị lấy giáng làm thuận, Tỳ
lấy thăng làm hòa.
-
Vị
chủ về thu nạp, Tỳ chủ về vận hóa.
-
Vị
thích thấp mà ghét táo, Tỳ thích táo mà ghét thấp.
3. Muốn giúp cho gia đình Tỳ vỵ trên thuận
dưới hòa thì thực phẩm hoặc dược liệu phải có màu vàng (thổ), vị ngọt (thổ). Điển
hình như vị Cam thảo có đủ yếu tố màu vàng và vị ngọt, nhưng cũng với vị Cam thảo để nguyên (sanh): mà sanh thì tả hỏa, vì thích
mà Tỳ không thích), nếu sao thì ôn, nếu ôn thì Tỳ thích Vị không thích.
Vậy cũng với vị Cam thảo mà phải Chích (tẩm mật nướng).
4. Ngoài cái lục đục của
nội bộ gia đình hành thổ (chém trong sống còn phải động) ta còn phải lưu ý đến
một gia đình hàng xóm, hay đâm bị thóc thọc bị gạo, vạch lá tìm sâu, bới lông
tìm vết…. Đó là Can. (can mộc khắc Tỳ
thổ). Can khi phạm vị.
4. Tác dụng điều trị và hướng điều trị:
a. Tác dụng điều trị bên vị:
- Tâm (hỏa) nếu nhiệt sẽ: khó ngũ, ngũ hay mơ, phiền
muộn. Nếu hàn có triệu chứng uể ỏai sau khi ăn dễ buồn ngũ.
- Vị (thổ) nếu nhiệt, ăn uống nhiều, nếu
hàn chán ăn.
- Đại trường (kim), nếu nhiệt đi tiêu: Phân
lõang mùi khẳm, kiết có máu, rát hậu môn, nếu táo bón phân tròn khô. Nếu hàn đi
tiêu phân có thức ăn mùi tanh. Kiết thì phân trong lõang, nếu bón phân có lọn
dài đầu cục phân cứng, đuôi cục phân mềm.
b. Tác dụng điều trị bên Tỳ:
- Mạng môn (hỏa) suy, chân lạnh, đau huyệt
thận du bên phải, tiểu đêm.
- Tỳ (thổ) suy: uể ỏai tay chân giở không
lên.
-
Phế
(kim) suy: gai rét về chiều, sợ nước dễ cảm.
c. Nếu can (mộc khắc) Tỳ (thổ)
sẽ có chứng uất hơi, can phong nội động.
[1] một âm một dương là Đạo.
[2] trong dương có gốc âm,
trong âm có gốc dương
[3] phúc hề họa chi sỡ ỷ , họa hề phúc chi sỡ
phục. (trong phúc đã có họa tàng ẩn, trong họa đã có phúc nẩy mầm).
[4] Vật đến cùng thì phản lại, dương đến cùng
thì âm sinh , âm đến cùng thì dương sinh.
[5] Hình nhìn bằng mắt, sự hạn chế của tầm
nhìn nhờ mắt, làm nhiều sự vật tuy có nhưng chúng ta lầm tưởng rằng không! Người
cho có kẻ nói không, tư tưởng thành bất đồng sinh ra cãi cọ, là do sự nhận biết
không trọn vẹn, do mê lầm mà sinh ra. ĐẠO cũng là một trong những vấn đề thường
gây bất đồng, nhưng thực ra Đạo là các quy luật vận hóa trong trời đất, là sự
THƯỜng có luôn trong trời đất, không thể khác được, không thay đổi được , chúng
tôi tạm dùng chữ Đạo để diễn giải.
[6] Lời ở ngòai ý.
[7] Đạo là đạo , không thể dùng lời mà nói hết được,
tạm mượn từ ngữ diễn đạt từng khía cạnh mà thôi, có thể rất nhiều trình thuật diễn tả về nó nhưng không bao giờ trọn vẹn được .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét